Quế nhục còn có tên khác là ngọc quế, quan quế, quế bì, quế tâm...; là vỏ khô của thân cây quế (Cinnamomum sp.). Quế nhục chủ yếu chứa các tinh dầu (eugenol, cinnamic aldehyde,...); ngoài ra còn có tannin, chất nhầy, chất màu, nhựa; và các hợp chất đường (glucose, fructose, sucrose...). Có tác dụng giải nhiệt hạ sốt với liều thấp, trấn tĩnh chống kinh giật, chống nghẽn mạch, chống huyết tắc huyết khối, lợi niệu, chống viêm, kháng khuẩn...
Theo Đông y, quế nhục vị cay ngọt, tính rất nhiệt, hơi độc; vào các kinh can, thận và tỳ. Có tác dụng ôn thận tráng dương, ôn trung tán hàn, ôn thông kinh mạch khí huyết. Dùng cho các trường hợp tỳ thận dương hư, sợ lạnh, tay chân lạnh, đau bụng tiêu chảy, liệt dương, di tinh di niệu, thống kinh do hàn thấp, phong hàn thấp tý, khí huyết hư, cơ thể suy nhược, mạch tay chân lạnh, các vết thương phẫu thuật mụn nhọt để lại những chỗ rò dai dẳng... Liều và cách dùng: 2 - 6g bằng cách nấu, hầm, pha hãm, ngâm sắc.
Một số cách dùng nhục quế trị bệnh
Ấm thận bổ hỏa: trị thận dương hư nhược, chân tay lạnh, mạch yếu, tỳ vị hư hàn, bụng lạnh, đi tả lâu ngày.
Bài 1 - Đơn tam khí: nhục quế 4g, lưu hoàng 4g, hắc phụ tử 12g, can khương 6g, chu sa 2,5g. Các vị nghiền mịn, làm hoàn, lấy chu sa làm áo. Mỗi lần 4g, ngày 2 lần, uống với nước. Trị nôn nhiều, tiêu chảy nên quyết nghịch hư thoát.
Bài 2 - Hoàn quế linh: nhục quế 4g, mộc hương 4g, can khương 6g, nhục đậu khấu 12g, phụ tử 12g, đinh hương 4g, phục linh 8g. Nghiền mịn, làm hoàn. Mỗi lần 12g, ngày 2 - 3 lần, uống với nước.
Dùng bài Hoàn tề sinh thuận khí: địa hoàng sấy 20g, sơn dược 16g, sơn thù du 8g, phục linh 12g, đơn bì 12g, trạch tả 12g, nhục quế 6g, phụ tử 12g, ngưu tất 12g, xa tiền tử 20g. Các vị nghiền mịn, làm mật hoàn. Mỗi lần 20g, ngày 2 - 3 lần, uống với nước.