ĐẠM TRÚC DIỆP
Còn gọi là trúc diệp, rễ gọi là toái cốt tử, trúc diệp mạch đông, mễ thân thảo, sơn kê mễ.
Tên khoa học: Lophatherum gracile Br.
Họ khoa học: Poaceae.
Mô tả: Cỏ sống dai lâu năm, thân dài 0,3-0,6m, thẳng đứng hay hơi bò. Rễ phình thành củ, hình chùm. Lá mềm, xếp cách nhau, hình bầu dục dài, nhọn đầu, tròn hay hình nêm ở gốc, trông giống như lá tre, nhẵn ở mặt dưới, có lông trên gân ở mặt trên, mép nhẵn, bẹ lá nhẵn, dài, mềm nhẵn hay có lông ở mép, lưỡi bẹ ngắn. Cụm hoa hình bông (chùy) thưa dài 10-30cm. Bông nhỏ hình mũi mác, cuống dài mảnh mang trên hoa lưỡng tính 8-9 mày nhỏ rỗng và cuộn lại. Nhị 2-3, bao phấn hình thoi cây ra hoa từ tháng 3-11.
Phân biệt:
1- Có nơi người ta thay thế cây Đạm trúc diệp bằng cỏ Thài lài trắng (Commelina communis L.,) họ Commelinaceae
2- Đạm trúc diệp đôi khi còn dùng để chỉ một loại lá cây của Trúc cần câu (Phyllotachys puberula Mak), có ở Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Giang, Hà Bắc, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Quảng Ninh. Dùng để chữa sốt, chống khát nước Thổ huyết, Cảm cúm.
Phân bố: Cây mọc trên các bờ tường, ven đồi, chân núi đá. Cây ưa ẩm ưa sáng. Gặp nhiều ở Lạng Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Ninh Bình...
Thu hái, sơ chế: Thu hái khoảng tháng 5-6, hái toàn cây, cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô, bó thành từng bó nhỏ, khi dùng cắt ngắn khoảng 2-3cm. Có thể dùng tươi.
Phần dùng làm thuốc: Toàn cây hoặc lá, thân.
Công dụng: theo tài liệu cổ đạm trúc diệp có vị ngọt, nhạt, tính hàn, vào hai kinh tâm và tiểu trường. có tác dụng lợi tiểu tiện, thanh tâm hoả, trừ phiền nhiệt. Dùng chữa tâm phiến, tiểu tiện đỏ, tiểu tiện khó khăn.
hiện nay, đạm trúc diệp được dùng trong nhân dân làm thuốc chữa sốt, thông tiểu, phụ nữ có thai không được dùng.
Liều hàng ngày là 8-10g dưới dạng thuốc sắc, thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác.